There are these gross impurities in gold: dirty sand, gravel, & grit. The dirt-washer or his apprentice, having placed [the gold] in a vat, washes it again & again until he has washed them away.


Này các Tỷ-kheo, có những uế nhiễm thô tạp của vàng như bụi, cát, đá, sạn và đá sỏi. Người đăi lọc bụi hay đệ tử của người đă lọc bụi đem đổ vào trong cái máng, rồi rửa sạch qua, rửa sạch lại, rửa sạch thêm nữa.

 

When he is rid of them, there remain the moderate impurities in the gold: coarse sand & fine grit. He washes the gold again & again until he has washed them away.


Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn tất, c̣n lại những uế nhiễm bậc trung của vàng, như cát đá, sạn tế nhị và các hột cát thô tạp. Người đăi lọc bụi hay đệ tử của người đăi lọc bụi rửa sạch, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn.

 

When he is rid of them, there remain the fine impurities in the gold: fine sand & black dust. The dirt-washer or his apprentice washes the gold again & again until he has washed them away.


Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn tất, c̣n lại những uế nhiễm tế nhị, như cát mịn và cát bụi đen. Người đăi lọc bụi hay đệ tử của người đăi lọc bụi rửa sạch, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn.

 

When he is rid of them, there remains just the gold dust.
The goldsmith or his apprentice, having placed it in a crucible, blows on it again & again to blow away the dross. The gold, as long as it has not been blown on again & again to the point where the impurities are blown away, as long as it is not refined & free from dross, is not pliant, malleable, or luminous. It is brittle and not ready to be worked. But there comes a time when the goldsmith or his apprentice has blown on the gold again & again until the dross is blown away.
The gold, having been blown on again & again to the point where the impurities are blown away, is then refined, free from dross, plaint, malleable, & luminous. It is not brittle, and is ready to be worked. Then whatever sort of ornament he has in mind — whether a belt, an earring, a necklace, or a gold chain — the gold would serve his purpose.


Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn tất, chỉ c̣n lại bụi vàng. Rồi người thợ vàng hay đệ tử người thợ vàng bỏ bụi đỏ vàng ấy vào trong cái ḷ, rồi thụt ống bệ, thụt ống bệ thêm, thụt ống bệ cho đến khi vàng bắt đầu chảy, người không chảy ra khỏi miệng ḷ. Vàng ấy được thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được thụt bệ hơn nữa, người không chảy ra khỏi miệng ḷ, chưa làm xong, chưa sạch các uế nhiễm, chưa có nhu nhuyễn, chưa có kham nhậm, chưa có sáng chói. Vàng ấy c̣n có thể bể vụn và chưa tác thành tốt đẹp. Có một thời, này các Tỷ-kheo, người thợ vàng hay đệ tử người thợ vàng ấy lại thụt bệ, thụt bệ thêm nữa, thụt bệ hơn nữa, cho đến khi vàng chảy ra khỏi ḷ. Vàng ấy lại được thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được thụt bệ hơn nữa, cho đến khi vàng chảy ra khỏi ḷ, được làm xong, được sạch các uế nhiễm, được nhu nhuyễn, được kham nhậm, và được sáng chói. Vàng ấy c̣n không bị bể vụn và có thể tác thành tốt đẹp. Và loại trang sức nào người ấy muốn, như vàng lá, hay nhẫn, hay ṿng cổ, hay dây chuyền, người ấy có thể làm thành như ư muốn.

 

In the same way, there are these gross impurities in a monk intent on heightened mind: misconduct in body, speech, & mind. These the monk — aware & able by nature — abandons, destroys, dispels, wipes out of existence. When he is rid of them, there remain in him the moderate impurities: thoughts of sensuality, ill will, & harmfulness. These he abandons, destroys, dispels, wipes out of existence. When he is rid of them there remain in him the fine impurities: thoughts of his caste, thoughts of his home district, thoughts related to not wanting to be despised. These he abandons, destroys, dispels, wipes out of existence.


Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập tăng thượng tâm, c̣n tồn tại các kiết sử thô tạp, thân ác hành, khẩu ác hành, ư ác hành. Tỷ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi lại. Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỷ-kheo tu tập tăng thượng tâm, c̣n tồn tại các kiết sử tế nhị, như tư tưởng về gia tộc, tư tưởng về quốc độ, tư tưởng không bị kinh rẻ. Tỷ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi lại.

 

When he is rid of them, there remain only thoughts of the Dhamma. His concentration is neither calm nor refined, it has not yet attained serenity or unity, and is kept in place by the fabrication of forceful restraint. But there comes a time when his mind grows steady inwardly, settles down, grows unified & concentrated. His concentration is calm & refined, has attained serenity & unity, and is no longer kept in place by the fabrication of forceful restraint. "And then whichever of the higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.


Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, chỉ c̣n lại các pháp tầm (tư tưởng về pháp). Định như vậy không có an tịnh, không có thù thắng, không được khinh an, không đạt đến nhứt tâm, nhưng là một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép. Nhưng đến một thời, này các Tỷ-kheo, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đứng lại, được nhứt tâm, được định tĩnh. Định ấy được an tịnh, được thù diệu, được khinh an, đạt đến nhứt tâm, không phải một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép, tùy thuộc vào pháp ǵ tâm người ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc

 

If he wants, he wields manifold supranormal powers. Having been one he becomes many; having been many he becomes one. He appears. He vanishes. He goes unimpeded through walls, ramparts, and mountains as if through space. He dives in and out of the earth as if it were water. He walks on water without sinking as if it were dry land. Sitting crosslegged he flies through the air like a winged bird. With his hand he touches and strokes even the sun and moon, so mighty and powerful. He exercises influence with his body even as far as the Brahma worlds. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu vị ấy ước muốn, ta sẽ chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện h́nh, biến h́nh, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, ngồi kiết già đi đến hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cơi Phạm thiên" ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, he hears — by means of the divine ear-element, purified and surpassing the human — both kinds of sounds: divine and human, whether near or far. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Vị ấy nếu ước muốn : "Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài người" ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, he knows the awareness of other beings, other individuals, having encompassed it with his own awareness. He discerns a mind with passion as a mind with passion, and a mind without passion as a mind without passion. He discerns a mind with aversion as a mind with aversion, and a mind without aversion as a mind without aversion. He discerns a mind with delusion as a mind with delusion, and a mind without delusion as a mind without delusion. He discerns a restricted mind as a restricted mind, and a scattered mind as a scattered mind. He discerns an enlarged mind as an enlarged mind, and an unenlarged mind as an unenlarged mind. He discerns an excelled mind [one that is not at the most excellent level] as an excelled mind, and an unexcelled mind as an unexcelled mind. He discerns a concentrated mind as a concentrated mind, and an unconcentrated mind as an unconcentrated mind. He discerns a released mind as a released mind, and an unreleased mind as an unreleased mind. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu vị ấy ước muốn : "Mong rằng với tâm của ḿnh có thể biết tâm của các loại chúng sanh khác, tâm của các loài Người khác như sau : Tâm có tham biết là tâm có tham. Tâm không tham biết là tâm không tham. Tâm có sân biết là tâm có sân. Tâm không sân biết là tâm không sân. Tâm có si biết là tâm có si. Tâm không si biết là tâm không si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm. Không phải đ hành tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm thiền định biết là tâm thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát" ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, he recollects his manifold past lives (lit: previous homes), i.e., one birth, two births, three births, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, one hundred, one thousand, one hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction and expansion, [recollecting], 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he remembers his manifold past lives in their modes and details. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu vị ấy ước muốn : "Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp ; vị ấy nhớ rằng : "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh tại đây". Vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào".

 

If he wants, he sees — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech, and mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, and mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — he sees beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu vị ấy ước muốn : Với thiên nhăn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rơ chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh ấy làm những ác nghiệp về thân, ngữ và ư, phỉ báng các bậc thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, địa ngục, đọa xứ. Các chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ư, không phỉ báng các bậc thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những vị này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cơi thiện, cơi Trời, cơi đời này. Như vậy, với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhiên, ta có thể thấy sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ" ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

 

If he wants, then through the ending of the mental effluents, he remains in the effluent-free awareness-release and discernment-release, having known and made them manifest for himself right in the here and now. He can witness this for himself whenever there is an opening.


Nếu vị ấy ước muốn : "Do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát" ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |